Rất đông khách mời đã tới tham dự Hội thảo
Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đã chính thức được ký kết, mở ra kỷ nguyên mới về hội nhập quốc tế, đem lại nhiều lợi ích cho Việt Nam về chính trị, kinh tế - xã hội, ngoại giao... Trước những thời cơ và vận hội đang mở ra, Việt Nam rất cần nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm đáp ứng cho sự phát triển của đất nước.
Trước thực trạng này, được sự chỉ đạo của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Báo Diễn đàn Doanh nghiệp phối hợp với nhãn hiệu CLS - Cloud Learning System (Hương Việt Group) tổ chức Hội thảo “Giải pháp mới nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trước thềm CPTPP”.
Hội thảo nhằm tháo gỡ khó khăn trong vấn đề nhân sự, tạo điều kiện để các doanh nghiệp FDI có được đội ngũ nhân sự tốt để phát triển hoạt động kinh doanh của đơn vị mình; đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh Hiệp định CPTTP đã được ký kết. Đồng thời, bàn luận giải pháp, giới thiệu các mô hình tiên tiến ứng dụng công nghệ thông tin vào trong hoạt động đào tạo nhân sự nội bộ của doanh nghiệp.
Các khách mời tới tham dự Hội thảo
Đúng 14h30', Hội thảo chính thức bắt đầu.
Tới tham dự Hội thảo có sự hiện diện của: Tiến sĩ Vũ Tiến Lộc – Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam; Bà Lê Kim Dung - Cục trưởng Cục Việc làm, Bộ Bộ Lao động Thương binh và Xã hội; TS Trần Mạnh Đức – Vụ Văn hóa Giáo dục Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng; Đại diện tổ chức lao động quốc tế (ILO); Đại diện Đại sứ quán Lào; Đại diện Đại sứ quán Palestine; Đại diện Đại sứ Romania; Đại diện Đại sứ quán Nauy; Đại diện Đại sứ quán Mexico; Đại diện Đại sứ quán Malaysia; Đại diện Phòng Thương mại LiBi, Đại diện Đại sứ quán CuBa; Đại diện Hiệp hội Phòng Thương mại và Công nghiệp Pháp và đại diện các tổ chức quốc tế khác.
Về phía các diễn giả có: Ông Stephan Ulrich – Quản lý dự án Vùng Dự án Phát triển Doanh nghiệp bền vững của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO); Bà Trần Thị Lan Anh – Giám đốc Văn phòng giới sử dụng; Bà Nguyễn Thị Thu Trang - Giám đốc Trung tâm WTO; GS Nguyễn Mạnh Quân – Viện trưởng Viện nghiên cứu phát triển doanh nghiệp; Ông Nguyễn Mại – Chủ tịch Hiệp hội Các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; Bà Nguyễn Phương Mai - Giám đốc điều hành Navigos Search, thuộc tập đoàn tuyển dụng nhân sự Navigos Group Việt Nam; Bà Nguyễn Thị Nhàn - Giám đốc điều hành dự án CLS - Cloud Learning System; Thạc sĩ Vũ Tuấn Anh – Chuyên gia tư vấn và đào tạo chuyển đổi số doanh nghiệp.
Về phía Ban tổ chức có: Ông Phạm Ngọc Tuấn – Tổng Biên tập Báo Diễn đàn Doanh nghiệp; Ông Nguyễn Khánh Toàn – Giám đốc Hương Việt Group, đại diện nhãn hiệu Cloud Learning System.
Đặc biệt còn có sự tham dự của các khách mời là đại diện các Sở, Ngành liên quan, các Hiệp hội Doanh nghiệp, các Doanh nghiệp cùng các cơ quan thông tấn báo chí.
Phát biểu khai mạc Hội thảo, TS Vũ Tiến Lộc - Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho biết, năm vừa qua Việt Nam đã tăng trưởng 6.81%. Thủ tướng tuyên bố mặc dù Quốc đề ra mục tiêu cho năm 2018 tăng trưởng 6,5-6,7% nhưng Chính phủ sẽ cố gắng đạt mức tăng trưởng tối thiểu 6.7%. Các chuyên gia đã có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này. Theo đó, mức tăng trưởng 6,7% được một số chuyên gia cho là không đơn giản. “Tăng trưởng 6,7% trong năm 2018 không đơn giản và cần quyết tâm rất cao. Tôi tin rằng những cải cách thể chế, đặc biệt là những cải cách hành chính như mục tiêu cắt giảm 50% thủ tục kiểm tra chuyên ngành, điều kiện kinh doanh chính là những động lực lớn nhất cho sự tăng trưởng” - TS Vũ Tiến Lộc nói.
TS Vũ Tiến Lộc - Chủ tịch VCCI
Theo Chủ tịch VCCI, tăng trưởng không phải vấn đề quan trọng nhất, chất lượng tăng trưởng chính là sự phát triển bền vững của doanh nghiệp mới là điều quan trọng. Cho đến nay, những tiếng chuông cảnh báo chất lượng tăng trưởng luôn dồn dập tạo áp lực cho chúng ta. Thứ nhất, Việt Nam là một trong những nền kinh tế có năng suất lao động thấp nhất khu vực. Thứ hai, theo báo cáo PCI của VCCI, trình độ quản trị của các doanh nghiệp Việt Nam đang thấp nhất khu vực Đông Nam Á.
Báo cáo PCI cũng cho thấy 55% doanh nghiệp khẳng định khó tìm kiếm nguồn lao động có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu doanh nghiệp. Cuộc tìm kiếm khá nhọc nhằn của nhà đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước là tìm kiếm nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam.
Còn theo số liệu điều tra của viện Khoa học Lao động Xã hội, 2/3 số doanh nghiệp Việt Nam cho biết, phần lớn người lao động thiếu hụt kĩ năng cần thiết cả về chuyên môn và các kỹ năng nòng cốt khác. Sự thiếu hụt những kỹ năng cốt lõi ngoài kỹ năng về mặt kỹ thuật còn nghiêm trọng hơn thiếu hụt kỹ năng về kỹ thuật.
Mặc dù nguồn lực lao động dồi dào, song Việt Nam được lựa chọn là điểm hấp dẫn các nhà đầu tư không phải do chất lượng nguồn lao động hay thể chế. Các nhà đầu tư Nhật Bản xếp 3 yêu cầu quan trọng trong việc lựa chọn Việt Nam là điểm đầu tư đó là do sự ổn định chính trị xã hội, quy mô thị trường và lực lượng lao động trẻ.
Nói đến chất lượng nguồn nhân lực trước thềm CPTPP và trước sức ép nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong bối cảnh hội nhập và phát triển nói chung, Chủ tịch VCCI cho biết, tác động kép của hội nhập và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đặt ra thách thức lớn với vấn đề phát triển của Việt Nam. Vì thế, cần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đưa nhân lực trở thành yếu tố hạt nhân để thúc đẩy tăng trưởng với chất lượng cao hơn, đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển cao hơn trong thời gian tới.
“Việc cải các hệ thống giáo dục đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là yêu cầu quan trọng hiện nay. Có lẽ mọi cải cách đều phải bắt nguồn từ cải cách hệ thống đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Bây giờ không phải thời các trường đào tạo vô tư đưa ra chương trình đào tạo theo suy nghĩ, khung hay mong muốn của mình mà phải đặt trên nhu cầu của thị trường lao động, đào tạo theo cung cầu, đào tạo phải thực dụng hơn, rút ngắn thời gian hơn”. – TS Vũ Tiến Lộc nhấn mạnh.
Theo ông, một số cơ sở đào tạo hiện nay có đưa ra ý kiến, chương trình đào tạo đại học trong bối cảnh hiện nay chỉ nên rút ngắn còn 2 năm chứ không kéo dài 4-5 nữa bởi đó là xu thế trên thế giới. Không thể chậm chạm, rườm rà khi 4-5 năm mới “đẻ” ra được một thế hệ. Các ngành công nghệ, kỹ thuật cũng nên rút ngắn hơn. Như vậy mọi thứ đều phải thay đổi để nhanh hơn. “Phải tăng cường thực sự hệ thống giáo dục, tăng cường giáo dục về công nghệ, khoa học; thực hiện hệ thống giáo dục kép kết hợp nhà trường và doanh nghiệp, rút ngắn khoảng cách nhà trường và doanh nghiệp, rút ngắn khoảng cách giữa xưởng và trường. Bên cạnh việc giáo dục chuyên môn cũng cần chú trọng đến giáo dục về những kỹ năng cốt lõi ngoài chuyên môn”, ông Lộc nói.
Theo ông Lộc, doanh nghiệp đóng vai trò rất quan trọng trong việc cải cách hệ thống đào tạo nguồn nhân lực. Trong bối cảnh hiện nay, doanh nghiệp không phải chỉ là người đặt hàng, khách hàng của ngành giáo dục còn phải là chủ nhân, nhà đầu tư của hệ thống giáo dục.
“VCCI cũng có kết nối cùng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, kêu gọi các doanh nghiệp hợp tác với ngành giáo dục trong việc cải cách hệ thống giáo dục. Đặc biệt là giáo dục dạy nghề của nước ta, thay đổi hoàn toàn tư duy và phương thức tổ chức dạy nghề ở Việt Nam theo 6 hướng đồng hành, hợp tác giữa doanh nghiệp và cơ sở giáo dục đào tạo nghề. Thứ nhất, doanh nghiệp là người dự báo nhu cầu, đưa ra nhu cầu và đặt hàng với cơ sở đào tạo. Thứ hai, doanh nghiệp tham gia xây dựng giáo trình cùng các cơ sở đào tạo. Thứ ba, doanh nghiệp tham gia giảng dạy cùng các cơ sở đào tạo. Thứ tư, doanh nghiệp chính là nơi học viên thực tập, thực hành trong quá trình đào tạo. Thứ năm, doanh nghiệp cùng cơ sở đào tạo kiểm định chất lượng của giáo dục đào tạo. Thứ sáu, doanh nghiệp là nơi tiếp nhận và sử dụng nguồn lao động”. – TS Vũ Tiến Lộc thông tin.
TS Vũ Tiến Lộc cũng cho biết, Bộ Lao động Thương binh vã Xã hội đã có chương trình thí điểm cho việc này với mục tiêu đưa ra là 100.000 lao động sẽ được đào tạo theo đặt hàng, yêu cầu của các doanh nghiệp. Doanh nghiệp cùng với nhà trường cùng thực hiện công tác đào tạo. Như vậy không còn ranh giới giữa nhà trường và doanh nghiệp nữa. Cộng đồng doanh nghiệp cũng là chủ nhân của hệ thống giáo dục đào tạo và là người hưởng lợi ích từ hệ thống này.“Đây là thay đổi căn bản của phương thức tổ chức đào tạo dạy nghề của nước ta. Tôi nghĩ đây cần là hướng của toàn bộ hệ thống giáo dục, nghề nghiệp, dạy nghề, quản trị. Giờ là lúc rút ngắn khoảng cách, xóa đi ranh giới thực và ảo, trường và xưởng,…” – Ông Lộc nhìn nhận.
Ông cũng kỳ vọng, với nền tảng CLS, chúng ta sẽ không còn ranh giới nào về không gian, thời gian, doanh nghiệp sử dụng nền tảng CLS của Công ty Hương Việt sẽ cùng cơ sở giáo dục đào tạo thực hiện đào tạo cho mình trực tuyến, thường xuyên. Việc học không chỉ học suốt đời mà còn học suốt ngày, học mọi nơi, mọi lúc.
“Tôi hi vọng đây sẽ là giải pháp, là công cụ sáng tạo mang tính khởi nghiệp, thúc đẩy nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực đặc biệt là nguồn nhân lực dạy nghề, quản trị,… Hi vọng thời gian tới VCCI cùng hợp tác với các tổ chức quốc tế sẽ đưa ra nhiều nền tảng khác để thúc đẩy việc nâng cao trình độ quản trị của doanh nghiệp cũng như nâng cao chất lượng nguồn nhân lực”. – ông Lộc nói.
Phiên 1: Nguồn nhân lực - Nỗi lo không của riêng doanh nghiệp
Từ trái qua phải: Ông Stephan Ulrich – Quản lý dự án Vùng Dự án Phát triển Doanh nghiệp bền vững của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO); Bà Nguyễn Thị Thu Trang - Giám đốc Trung tâm WTO; Bà Lê Kim Dung - Cục trưởng Cục Việc làm, Bộ LĐ TB&XH; Ông Nguyễn Mại – Chủ tịch Hiệp hội Các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; TS Trần Mạnh Đức – Vụ Văn hóa Giáo dục Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng đến tham dự và trình bày phát biểu.
Phát biểu tại Phiên 1, TS Trần Mạnh Đức - Vụ Văn hóa-Giáo dục-Thanh niên-Thiếu niên-Nhi đồng cho biết, cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0 sẽ tạo ra những thay đổi lớn về cung cầu lao động khi có sự sự xuất hiện của các robot. Việt Nam là nước chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ cách mạng 4.0.
TS Trần Mạnh Đức - Vụ Văn hóa-Giáo dục-Thanh niên-Thiếu niên-Nhi đồng
Theo nhiều dự đoán, số lao động của Việt Nam sẽ giảm một nửa so với hiện nay. Trong đó, nhiều ngành nghề biến mất nhưng xuất hiện nhiều ngành nghề mới. Do vậy, nguồn nhân lực sẽ được đào tạo lại đề phù hợp với bối cảnh và nhu cầu mới.
Cũng theo ông Đức, cuộc cạnh tranh khốc liệt nhất trong thời đại cách mạng 4.0 là cạnh tranh nguồn nhân lực. Nếu Việt Nam không chuẩn bị tốt sẽ hụt hơi và không qua được cái bẫy thu nhập trung bình.
Trên thực tế, chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam hiện tại chưa đáp ứng yêu cầu về chất lượng cũng như cân đối lao động. "Vì vậy, trong bối cảnh đó, Việt Nam cần đổi mới chất lượng nguồn lao động. Sự thay đổi này cũng được bổ sung tại Dự thảo Luật giáo dục Đại học" - ông Đức nói.
Nhận định về chất lượng nguồn lao động của thị trường lao động Việt Nam, TS Lê Kim Dung - Cục trưởng Cục Việc làm, Bộ LĐ TB&XH cho biết, nguồn lao động Việt Nam dồi dào và ổn định. Tuy nhiên chất lượng nguồn lao động của Việt Nam vẫn còn nhiều điểm phải bàn.
TS Lê Kim Dung - Cục trưởng Cục Việc làm, Bộ LĐ TB&XH
Cụ thể, tỷ lệ lao động trong độ tuổi đã qua đào tạo còn thấp, thiếu hụt lao động có tay nghề cao vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động và hội nhập. Ngoài ra, khoảng cách giữa giáo dục nghề nghiệp và nhu cầu của thị trường lao động ngày càng lớn. Khi xem xét vấn đề thất nghiệp theo góc độ trình độ chuyên môn kỹ thuật thì tỷ lệ thất nghiệp đang có xu hướng gia tăng trong số lao động có trình độ cao.
Theo Bản tin Thị trường lao động số 15, tại thời điểm quí 3/2017, số người thất nghiệp có trình độ từ đại học trở lên tăng 53,9 nghìn người so với quí 2/2017 ở mức 237 nghìn người, tương đương 4,51%.
Liên quan đến đánh giá tác động của CPTPP tới phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam, bà Dung cho rằng, CPTPP đang tạo ra cả những cơ hội và thách thức. Phân tích về cơ hội, bà Dung cho rằng đó là cơ hội để phát triển giáo dục nghề nghiệp như tạo ra nhiều cơ hội trong việc hợp tác lẫn nhau giữa các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cơ hội học tập, bồi dưỡng, trao đổi nâng cao trình độ cho đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục nghề nghiệp. Ngoài ra sẽ có thêm nhiều nguồn lực đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp.
Theo bà Dung thách thức lớn nhất của lao động Việt Nam đó là tính cạnh tranh sẽ là thách thức lớn nhất trong khi mức độ sẵn sàng của giáo dục nghề nghiệp Việt Nam còn chậm. Cạnh tranh giữa Việt Nam với các nước trên thế giới trong việc cung cấp nguồn lao động chất lượng cao ngày càng tăng đòi hỏi chất lượng giáo dục nghề nghiệp phải được cải thiện đáng kể theo hướng tiếp cận được các chuẩn của khu vực và thế giới nhằm tăng cường khả năng công nhận văn bằng chứng chỉ giữa Việt Nam và các nước khác.
Vì vậy, một trong những đề xuất bà Dung đưa ra đó là tăng cường tham gia xây dựng chương trình, giáo trình đào tạo và tổ chức giảng dạy, hướng dẫn thực tập và đánh giá kết quả học tập của người học tại cơ sở giáo dục nghề nghiệp cũng như tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kỹ năng nghề và đào tạo lại nghề cho người lao động của doanh nghiệp. Đồng thời tăng cường các khoản chi cho hoạt động đào tạo nghề nghiệp của doanh nghiệp được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế theo quy định của pháp luật về thuế.
Ông Stephan Ulrich – Quản lý dự án Vùng Dự án Phát triển Doanh nghiệp bền vững của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) cho rằng, CPTPP sẽ mang lại lợi ích rất nhiều cho Việt Nam cũng như lợi ích cho tất cả các nhóm thu nhập. CPTPP cũng sẽ giúp Việt Nam thu hút nhiều hơn nữa nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài trong các ngành may mặc, da giày, điện tử…, đặc biệt là các ngành thuộc lĩnh vực công nghệ. "Đây là xu hướng mà Việt Nam cần quan tâm thời gian tới" - ông Stephan Ulrich nhấn mạnh.
Ông Stephan Ulrich – Quản lý dự án Vùng Dự án Phát triển Doanh nghiệp bền vững của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO)
Theo thống kê có 33% công ty cho rằng làm việc nhóm và 31% cho rằng khả năng trao đổi là quan trọng. Các doanh nghiệp cũng cho rằng các kĩ năng này không được dạy bài bản ở các trường đại học mà thường được hình thành và đào tạo trong quá trình lao động tại doanh nghiệp. Doanh nghiệp cũng cho rằng, nếu chỉ có nguồn nhân lực tốt mà chưa có quản trị tốt thì không đi đến đâu cả.
Về trình độ quản lý, ông cho rằng, Việt Nam chỉ đứng cùng với các quốc gia như Kenya hay Nigeria chứ chưa thể đạt đến các quốc gia như Nhật Bản hay Hàn Quốc.
Vậy Việt Nam cần làm gì để chuẩn bị cho lực lượng lao động giai đoạn này? - ông Stephan Ulrich đặt câu hỏi. Theo ông, câu trả lời đó là Việt Nam cần mở rộng đào tạo, phổ cập giáo dục, thúc đẩy học sinh tham gia 4 bộ môn: khoa học, công nghệ, toán và kỹ thuật để tìm kiếm công việc có thu nhập cao hơn trong tương lai. Bên cạnh đó, giáo dục đào tạo và khởi nghiệp cần cải cách. Sự kết nối giữa khu vực công và tư trong lĩnh vực đào tạo để làm sao lĩnh vực tư có thể đưa phản ứng, thúc đẩy cho lĩnh vực công thay đổi, cải tiến.
GS. TSKH Nguyễn Mại - Chủ tịch Hiệp hội nhà đầu tư nước ngoài chia sẻ: “Khi nói đến thách thức của nguồn nhân lực trước thềm CPTPP phải xem lại nguồn nhân lực của Việt Nam. Phải nói rằng chất lượng nguồn nhân lực trong cơ cấu từng ngành là khác nhau. Hiện nay nguồn lao động Việt Nam trong các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp vẫn còn cao vì vậy, nếu lấy GDP/ tổng dân số vô hình chung năng suất lao động của Việt Nam bị thấp đi nhiều".
GS. TSKH Nguyễn Mại - Chủ tịch Hiệp hội nhà đầu tư nước ngoài
Tuy nhiên, theo quan điểm của GS. TSKH Nguyễn Mại thì chất lượng nguồn lao động của Việt Nam không phải là đáng báo động.
Mình chứng cho điều này, GS. TSKH Nguyễn Mại cho biết, chúng ta nên tiếp cận về chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam ở 3 cách tiếp cận. Một là, Luật Giáo dục sửa đổi mặc dù chưa được thông qua, tuy nhiên một số trường đại học như Đại học Thương mại hay Đại học Kinh tế Quốc dân đã thay đổi rất nhiều trong các chương trình đào tạo cử nhân. Cụ thể là hơn 80% số sinh viên ra trường đã có việc làm ngay. Ngoài ra, một số mô hình trường dạy nghề gắn với nhu cầu của doanh nghiệp cũng được thực hiện. Có nhiều mô hình tốt đã được triển khai chỉ tiếc là thời gian triển khai chậm.
Hai là, năm 2017 Việt Nam đã ghi nhận tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt mốc hơn 400 tỷ USD. Theo đó, xuất khẩu của Việt Nam đứng thứ 2 trong khu vực ASEAN và tại thị trường Mỹ Việt Nam từ vị trí “đáy” trong ASEAN 6, giờ cũng đã cải thiện nhiều hơn. Ba là, năm 2017, kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – Hàn Quốc đã tăng 30%, đạt hơn 80 tỷ USD. Hàn Quốc cũng là một trong những thị trường khó tính nhưng các sản phẩm của Việt Nam cũng đã đáp ứng được nhu cầu. Từ những cách tiếp cận vừa nêu, GS. TSKH Nguyễn Mại kết luận rằng chất lượng nguồn lao động không đáng lo.
Điều mà chất lượng nguồn lao động Việt Nam hiện nay đang thiếu đó chính là thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao như giám đốc điều hành doanh nghiệp. Vì vậy, cần phải quan tâm tới việc đào tạo nguồn nhân lực cấp cao này.
Chia sẻ tại hội thảo, bà Nguyễn Thị Thu Trang - Giám đốc trung tâm WTO nói: TPP có gì về lao động thì CPTPP có những điều khoản về lao động bởi CPTPP tiếp nối phần lớn cam kết của TPP. CPTPP chỉ tạm hoãn một số điểm so với TPP nhưng lại không có điều khoản hoãn về lao động.
Bà Nguyễn Thị Thu Trang - Giám đốc trung tâm WTO
Trong TPP và giờ là CPTPP thách thức không chỉ là cam kết hoạt động mà còn thách thức khác tại các hiệp thư song phương với các nước liên quan, trong đó có Mỹ. Với hiệp định thư song phương với Mỹ có lộ trình cụ thể, Mỹ hoàn toàn có quyền ngừng hợp đồng, có quyền phạt nếu chúng ta vi phạm. Tuy nhiên, Mỹ lại không tham gia vào CPTPP nên về cơ bản Việt Nam có thể thoải mái hơn trong các việc thực hiện các điều khoản trong CPTPP.
Nhiều người đặt câu hỏi nếu không có Mỹ thì những điều khoản trong CPTPP có những gì? bà Trang cho biết, chúng ta vẫn có các điều khoản về lao động được quy định tại Chương 19 của CPTPP; chúng ta cũng có thư song phương với các nước. Về cơ bản các thư song phương này có nội dung giống nhau, không có yêu cầu chặt chẽ.
Nhiều người hỏi rằng CPTPP ảnh hưởng gì đến chất lượng lao động trong tương tai? "Tôi cho rằng với việc thực hiện CPTPP thì chi phí của doanh nghiệp dành cho nguồn lao động cao hơn bởi các tiêu chuẩn trong CPTPP cao hơn. Tuy nhiên, đây có phải là thách thức không thì lại là vấn đề khác, bởi nếu Việt Nam thực hiện tốt có khi doanh nghiệp Việt còn được hưởng lợi khi xuất khẩu hàng hóa và doanh nghiệp sẽ không phải chịu tiếng “pháp luật” không đảm bảo. Đây sẽ là cơ hội, là động lực không thể tốt hơn để doanh nghiệp buộc phải cải thiện chất lượng nguồn lao động” - bà Trang nhấn mạnh.
Phiên 2: Giải pháp phát triển nguồn nhân lực từ thực tiễn
Từ trái qua phải: Bà Nguyễn Thị Nhàn - Giám đốc điều hành dự án CLS - Cloud Learning System; Bà Trần Thị Lan Anh –Giám đốc văn phòng giới sử dụng; Bà Nguyễn Phương Mai - Giám đốc điều hành của Navigos; Thạc sĩ Vũ Tuấn Anh - Chuyên gia tư vấn và đào tạo chuyển đổi số doanh nghiệp.
Phát biểu tại Phiên 2, Bà Trần Thị Lan Anh – Giám đốc văn phòng giới sử dụng cho biết, đối với các nước tham gia các Hiệp định FTA thế hệ mới đều phải tôn trọng, thúc đẩy và thực hiện có hiệu quả bốn tiêu chuẩn lao động cơ bản theo Tuyên bố năm 1998 của ILO, bao gồm: tự do liên kết và công nhận hiệu quả quyền thương lượng tập thể (được quy định trong Công ước ILO số 87 và 98 ); loại bỏ tất cả các hình thức lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc (Công ước ILO số 29 và 105 ); xoá bỏ lao động trẻ em (Công ước ILO số 138 và 182 ), và xóa bỏ phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp (Công ước ILO số 100 và 111 ).
Bà Trần Thị Lan Anh – Giám đốc văn phòng giới sử dụng
Theo bà Lan Anh, tất cả các quốc gia thành viên của ILO, bao gồm Việt Nam, đều phải tôn trọng các quyền này. Đây được coi là những quyền được ghi nhận trên toàn thế giới trong xã hội hiện đại. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn chưa phê chuẩn ba công ước cơ bản (Công ước số 87, 98 và 105) liên quan đến tự do liên kết, quyền thương lượng tập thể và loại bỏ lao động cưỡng bức.
Các nhà kinh tế kỳ vọng rằng CPTPP, cùng với Hiệp định thương mại tự do (FTA) EU-Việt Nam, sẽ mang lại những lợi ích kinh tế to lớn cho Việt Nam, thông qua việc tăng tính cạnh tranh về giá của các mặt hàng xuất khẩu Việt Nam trên những thị trường chính và đẩy mạnh đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), thúc đẩy phát triển kinh tế và tạo ra hàng triệu việc làm, bao gồm cả trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Quan trọng hơn, CTTPP sẽ giúp tạo điều kiện cho cải cách trong nước ở nhiều lĩnh vực và xây dựng môi trường cho nền kinh tế cạnh tranh.
Các nhà hoạt động toàn cầu hóa, các nhà hoạt động thương mại và các chính trị gia đã nhấn mạnh những hậu quả xã hội tiêu cực của quá trình toàn cầu hóa.
Các báo cáo của Tổ chức Lao động Quốc tế (International Labour Organization - ILO) và các báo cáo chính thức khác cho thấy sự tồn tại, thậm chí đang xấu đi của những hình thức bóc lột tồi tệ nhất như trẻ em và lao động cưỡng bức.
Có rất nhiều câu hỏi được đặt ra như liệu rằng các nước có khuyến khích hạ thấp tiêu chuẩn lao động để tăng giá trị cạnh tranh? Hay việc vi phạm các quyền cơ bản tại nơi làm việc có thể được coi là một lợi thế so sánh không công bằng? Và liệu sự toàn cầu hóa dẫn các nước vào một “cuộc chạy đua xuống đáy” (race to bottom) không hiệu quả? Thật vậy, việc mở cửa thị trường của các nước đang phát triển ngày càng gia tăng nhưng lại không kéo theo việc cải thiện nhanh chóng trong tiêu chuẩn lao động.
Bà Lan Anh cho biết, các FTA thế hệ mới yêu cầu tất cả các nước tham gia phải thông qua và duy trì các quyền được nêu trong Tuyên bố năm 1998 của ILO trong pháp luật, thể chế và thông lệ của họ. Đây là một cơ hội để hiện đại hoá pháp luật lao động và hệ thống quan hệ lao động trong khung thời gian đã định.
Các nước tham gia các FTA thế hệ mới đều phải nỗ lực tiến tới phê chuẩn những công ước cơ bản chưa phê chuẩn; Thực hiện có hiệu quả trong luật và thực tiễn các công ước đã phê chuẩn của ILO; Không vi phạm tiêu chuẩn lao động cơ bản để làm lợi thế cạnh tranh; Không sử dụng tiêu chuẩn lao động cơ bản vì mục đích bảo hộ thương mại.
Về cơ hội, theo bà Lan Anh, các nước tham gia các FTA thế hệ mới đều có cơ hội tạo thêm nhiều việc làm, đặc biệt là ở những ngành có lợi thế xuất khẩu; Vẫn còn dự địa cạnh tranh về giá lao động; Tăng nguồn đầu tư FDI, công nghệ, tăng năng suất lao động; cải thiện quan hệ lao động và điều kiện lao động; cải thiện tiền lương và thu nhập cho người lao động.
Tuy nhiên, nó cũng tồn tại những thách thức: Vấn đề số lượng lao động ngành nông nhiêp và tỷ lệ lao động qua đào tạo thấp cùng với tình trạng già hóa dân số, chuyển dịch cơ cấu chậm, Lao động phi chính thức chiếm tỷ trọng lớn, cơ cấu bất hợp lý; Năng suất lao động thấp, chậm cải thiện; Năng lực cạnh tranh của NNL thấp, thiếu hụt nhiều kỹ năng cần thiết là những thách thức lớn khi tham gia vào các FTA thế hệ mới.
Từ đó, bà Lan Anh đưa ra những kiến nghị cụ thể. Đối với Nhà nước cần truyền thông, nghiên cứu, đào tạo, nâng cao nhận thức; Sửa đổi hệ thống pháp luật hiện hành như Bộ luật Lao động, Luật Công đoàn và Một số luật khác; Phê chuẩn các công ước của ILO như 3 Công ước cơ bản và Các công ước kỹ thuật theo kế hoạch,….
Đối với doanh nghiệp cần tăng cường nhận thức về EVFTA, CPTPP; Tăng cường nghiên cứu và đầu tư cho nghiên cứu hiệp định; Tăng cường năng lực: công nghệ; quản tri; nhân công trình độ cao; kinh nghiệm kinh doanh quốc tế; năng lực tầm xây dựng chiến lược tham gia: công nghệ; cơ cấu ngành hàng, sản phẩm; nguồn nhân lực; thực hiện CSR;...
Bà Nguyễn Thị Phương Mai - Giám đốc điều hành Navigos Search cho biết, theo thống kê của trang tuyển dụng trực tuyến Vietnamword, chúng ta thấy là trong những năm vừa qua nhu cầu tuyển dụng tăng đều.
“Năm 2017 nhu cầu tuyển dụng lao động tăng 20% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, đối với nguồn cung nhân lực của chúng ta thì tốc độ tăng không đi cùng với tốc độ tuyển dụng vì nguồn cung nhân lực chỉ tăng 14% từ năm 2017 so với 2016; với phân khúc mà vị trí tuyển dụng là cấp trung và cấp cao qua các năm ngành có sự thu hút nhân lực cao nhất là các ngành trong các khối công nghiệp và sản xuất, ngân hàng, dịch vụ tài chính, công ty dịch vụ doanh nghiệp, ngành hàng tiêu dùng nhanh, ngành bán lẻ, ngành công nghệ thông tin" - bà Mai nói.
Bà Nguyễn Thị Phương Mai - Giám đốc điều hành Navigos Search
Theo bà Mai, tương lai nguồn cung nhân lực của Việt Nam thuộc vào thế hệ sinh từ 1980 đến 1990. Tuy nhiên, lứa tuổi này cũng có đặc điểm mà các doanh nghiệp rất băn khoăn đó là độ gắn bó với công việc không cao.
Có một khảo sát khác của Navigos Search cho thấy các doanh nghiệp đang bước chân vào cuộc chiến về mặt nhân tài. Theo thống kê của ILO, các doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong việc tìm ứng viên cho vị trí quản lý. “Với khảo sát của Navigos Search thì chúng tôi thấy rằng có đến 41% doanh nghiệp Việt cảm thấy khó khăn trong việc tìm ứng viên chất lượng cho vị trí quản lý” - bà Mai nói. Bên cạnh đó, bà Mai cũng cho biết có 31% các doanh nghiệp khảo sát cho biết họ thấy khó khăn trong vấn đề về ngôn ngữ.
Bà Mai cũng chỉ ra rằng thách thức của doanh nghiệp khi họ tuyển dụng những vị trí cấp trung cấp cao là: nguồn cung nhân lực Việt Nam cho vị trí này vừa thiếu vừa yếu, chúng ta chưa có nguồn lực thật sự giúp cho các doanh nghiệp biến thế mạnh của mình thành thế mạnh cạnh tranh trên thị trường lao động.
“Dưới áp lực của cách mạng 4.0, trong thời gian vừa qua, đặc biệt là trong khoảng 3 năm vừa qua, xu hướng công ty khởi nghiệp nhiều, đặc biệt khởi nghiệp công nghệ. Vì vậy đã một lần nữa thu hút các ứng viên ở vị trí cấp quản lý bước ra khởi nghiệp cho công ty riêng của mình, cũng như họ chèo kéo các vị trí quản lý ở các doanh nghiệp khác để về doanh nghiệp của mình" - bà Mai cho biết.
Một vấn đề nữa vô cùng đau đầu theo bà Mai là hiện tượng nhảy việc. Theo bà, có thể do cơ hội đến từ các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trong thời gian qua tăng nhanh nên cơ hội nhiều mà nguồn cung không nhiều khiến ứng viên chuyển từ doanh nghiệp này sang doanh nghiệp khác khá nhiều. Điều này, dẫn đến 2 hệ quả: hệ quả đầu tiên là làm thế nào đưa ra chiến lược giữ chân và phát triển nhân tài ở doanh nghiệp. Hệ quả tiếp theo là doanh nghiệp không tìm được ứng viên đủ tài đức trong việc chèo lái doanh nghiệp của họ.
Bàn về giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại Việt Nam, bà Mai cho rằng hiện tại chúng ta có 4 nhóm đối tác cần bắt tay với nhau chặt chẽ để giải bài toán nâng cao chất lượng doanh nghiệp Việt Nam là: cơ quan quản lý nhà nước; các nhà đào tạo, trường đào tạo; doanh nghiệp; các cơ quan truyền thông và đơn vị tư vấn.
Theo quan điểm của bà Mai thì ở góc độ các cơ quan quản lý nhà nước cần có chính sách mạnh mẽ hơn trong việc đào tạo chính nguồn lực tại công ty mình. Ngoài ra, cơ quan quản lý có thể nghĩ đến chính sách đưa ra giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp trong việc đưa ra công cụ giúp hoạt động hiệu quả hơn.
Về phía các nhà đào tạo, các trường đạo tạo bà Mai cho rằng các đối tượng này cần tích cực hơn trong việc đối thoại với doanh nghiệp, với cơ quan báo đài, các đơn vị tuyển dụng.
Đối với các nhà tuyển dụng, bà Mai cho rằng các nhà tuyển dụng cần phải cẩn thận hơn trong việc đưa ra những định hướng, thông tin hỗ trợ nhà đào tạo để họ biết rằng để đào tạo nguồn nhân lực.
Về phía các cơ quan báo đài, đơn vị tuyển dụng chúng ta hãy cùng nhau đưa ra dự báo về lao động giúp doanh nghiệp chuẩn bị tốt hơn, giúp cơ quan đào tạo đưa ra chương trình phù hợp hơn, giúp cho nguồn lực của chúng ta thực sự là nguồn lực chất lượng trong tương lai.
Theo bà Nguyễn Thị Nhàn – Giám đốc dự án CLS - Cloud Learning System, về thực trạng chất lượng lao động Việt Nam, thời điểm cách đây vài năm, Việt Nam được các nhà đầu tư nước ngoài xem như một “miền đất hứa” với những lợi thế như: dân số đông, thị trường tiêu thụ lớn; lực lượng lao động dồi dào, chi phí lao động thấp… Tuy nhiên, thực tế trong thời gian gần đây cho thấy, một số những yếu tố được coi như “lợi thế” này đôi khi vẫn khiến nhiều nhà đầu tư nước ngoài quan ngại. Đặc biệt, thể hiện rõ ràng nhất là vấn đề lao động tại Việt Nam.
Bà Nguyễn Thị Nhàn – Giám đốc dự án CLS - Cloud Learning System
Bà Nhàn đã dẫn chứng kết quả báo cáo Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) 2017. Cụ thể, chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam chưa có nhiều đột phá. Báo cáo cũng chỉ ra rằng, doanh nghiệp FDI đánh giá chất lượng đào tạo và hiệu quả của lao động Việt Nam năm 2017 chỉ đạt 3,8 điểm. Vì vậy, doanh nghiệp phải chi nhiều tiền hơn cho hoạt động đào tạo khi tuyển dụng nhân sự mới. Cụ thể, chi phí trung bình cho hoạt động này chỉ chiếm 3,6% chi phí kinh doanh vào năm 2013, nhưng sau đó đã tăng vọt lên 5,9% trong năm 2014 và ở mức 5,7% vào năm 2017.
Thực tế này cho thấy, lao động của Việt Nam phần lớn chưa được qua đào tạo; việc sở hữu các kỹ năng mềm, trình độ ngoại ngữ, khả năng làm việc nhóm, kỹ năng công nghệ thông tin và khả năng sáng tạo vẫn còn rất hạn chế. Và rất nhiều lao động Việt Nam dù đã qua đào tạo nhưng khi làm việc vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của chủ doanh nghiệp và phải mất thời gian đào tạo lại.
Vì vậy, thực tế này đã khiến cho công ty chọn cách tuyển dụng nhân sự đã có kinh nghiệm để giảm bớt quá trình đào tạo. Tuy nhiên, đội ngũ lao động có kinh nghiệm trên thị trường luôn khan hiếm. Quá trình tuyển dụng và đào tạo nhân sự khi đó lại rơi vào vòng luẩn quẩn và phải bắt đầu lại từ đầu.
Để thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn của bài toán nguồn nhân lực, các doanh nghiệp cần phải chủ động thay đổi, đưa ra giải pháp cải thiện chứ không nên chờ đợi từ thị trường một cách bị động như trước.
Việc tổ chức các chương trình đào tạo nhân sự nội bộ chính là cách gỡ nút thắt và tạo nội lực mạnh mẽ để doanh nghiệp phát triển bền vững. Giải quyết vấn đề nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một nhiệm vụ không chỉ mang lại lợi ích cho doanh nghiệp mà còn mang ý nghĩa xã hội.
Vì vậy, ngày nay xu hướng đào tạo trong doanh nghiệp đang chuyển dịch dần từ đào tạo truyền thống sang đào tạo online (Elearning) bởi một loạt các lợi ích vượt trội như phá vỡ các rào cản về địa lý, rút ngắn thời gian đào tạo, đồng thời tiết kiệm được chi phí nhờ không phải tổ chức các lớp học hay thuê đơn vị đào tạo như quy trình cũ...
Bà Nhàn chia sẻ, những lợi ích của đào tạo trực tuyến là điều dễ dàng nhìn thấy được nhưng để đầu tư xây dựng hệ thống đào tạo trực tuyến gồm phần mềm quản lý đào tạo, hạ tầng máy móc thiết bị, sản xuất nội dung và duy trì đội ngũ vận hành cần một nguồn tài chính rất lớn và thường xuyên - điều này nằm ngoài khả năng của hầu hết các doanh nghiệp còn lại.
Với nội hàm của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, việc ứng dụng công nghệ điện toán đám mây (cloud computing) vào trong hoạt động đào tạo trực tuyến (Elearning) được xem là một trong những giải pháp không chỉ có ý nghĩa trong ngành giáo dục mà còn giải quyết bài toán của các doanh nghiệp một cách hiệu quả.
Trên thế giới, các hệ thống đào tạo doanh nghiệp triển khai theo công nghệ này đã được ứng dụng phổ biến tại các thị trường phát triển như Mỹ, Châu Âu, Nhật Bản. Tuy nhiên, do vấn đề văn hóa, thói quen, trình độ nhận thức của nhân sự mà mỗi giải pháp E-learning chỉ thích hợp triển khai tại một khu vực. Chưa kể chi phí để các doanh nghiệp sử dụng và duy trì hệ thống nước ngoài rất đắt đỏ, lên tới hàng triệu USD.
Tại Việt Nam, giải pháp Hệ thống quản lý đào tạo trên nền tảng đám mây CLS - Cloud Learning System (cls.vn) hiện đang được biết đến là giải pháp duy nhất phục vụ công tác đào tạo nhân sự và giáo dục trực tuyến. Hiện nay Việt Nam có hơn 500.000 doanh nghiệp, tuy nhiên 90% trong đó chưa có hệ thống quản lý đào tạo nội bộ của riêng mình. Vì thế, hệ thống CLS do Hương Việt Group (huongvietgroup.com) phát triển được đánh giá là phù hợp với phần đông nguồn nhân lực Việt Nam do đặc tính thuần Việt; giao diện người dùng thân thiện, dễ sử dụng, các chi tiết phức tạp được giản lược đến mức tối đa.
Cụ thể, chi phí để đầu tư hệ thống CLS vô cùng thấp, chỉ dao động từ 10.000 đến 20.000đồng/nhân sự/ tháng tùy quy mô triển khai và không tốn thêm bất cứ chi phí thường xuyên nào khác. Hệ thống này sẽ mở ra cơ hội để các doanh nghiệp sở hữu riêng các hệ thống đào tạo trực tuyến của riêng mình nhằm đáp ứng nhu cầu đào tạo, phát triển nguồn lực. Với giải pháp này, bài toán giảm thiểu chi phí và rủi ro trong tuyển dụng và đào tạo nhân sự tại các doanh nghiệp có thể được giải quyết một cách triệt để. Đồng thời, tăng nhanh tốc độ tuyển dụng và hòa nhập nhân sự.
=>> Xem tiếp nội dung bài TẠI ĐÂY.
Ý kiến của bạn