Những cơ sở để BSR phát triển bền vững
Thông tin từ Công ty TNHH MTV Lọc hóa dầu Bình Sơn (BSR) - đơn vị tiếp nhận, quản lý, vận hành sản xuất kinh doanh Nhà máy Lọc dầu (NMLD) Dung Quất cho hay, sau hơn 7 năm đi vào hoạt động, NMLD Dung Quất đã đạt tổng doanh thu trên 36 tỷ USD, lợi nhuận trên 13 ngàn tỷ đồng (tính đến hết quý I/2017) và nộp ngân sách Nhà nước (trên 7 tỷ USD) hơn gấp đôi tổng mức đầu tư nhà máy (3 tỷ USD).
Thông tin từ Công ty TNHH MTV Lọc hóa dầu Bình Sơn (BSR) - đơn vị tiếp nhận, quản lý, vận hành sản xuất kinh doanh Nhà máy Lọc dầu (NMLD) Dung Quất cho hay, sau hơn 7 năm đi vào hoạt động, NMLD Dung Quất đã đạt tổng doanh thu trên 36 tỷ USD, lợi nhuận trên 13 ngàn tỷ đồng (tính đến hết quý I/2017) và nộp ngân sách Nhà nước (trên 7 tỷ USD) hơn gấp đôi tổng mức đầu tư nhà máy (3 tỷ USD).
Hàng năm, BSR đóng góp trên 90% GDP cho tỉnh Quảng Ngãi, tạo việc làm ổn định, thu nhập hấp dẫn cho hơn 1.500 CBCNV và hàng ngàn doanh nghiệp, đối tác cung cấp dịch vụ, vật tư, hóa phẩm xúc tác... cho nhà máy. Ngoài ra, BSR cũng được biết đến là một trong những đơn vị có trách nhiệm với cộng đồng, thực hiện tốt công tác an sinh xã hội, với số tiền thực hiện các chương trình an sinh xã hội lên tới 250 tỷ đồng (từ năm 2010 đến nay).
Phân tích tài chính giai đoạn 2015-2016 cho thấy, việc vận hành nhà máy tốt cùng với thị trường tiêu thụ ngày càng được mở rộng giúp cho sản lượng tiêu thụ của BSR đều vượt so với kế hoạch đặt ra và tăng so với năm trước.
Có thể nói, với sản lượng sản xuất và tiêu thụ vượt kế hoạch, cùng với các quyết định quản lý phù hợp của Ban lãnh đạo BSR đã làm cho kết quả kinh doanh của BSR trong giai đoạn 2015-2016 thực sự nổi bật.
Năm 2015, BSR ghi nhận doanh thu và lợi nhuận sau thuế tương ứng là 95.063,6 tỷ đồng và 6.124,6 tỷ đồng (tỉ suất lợi nhuận/vốn chủ sở hữu là 21%).
Năm 2016, các chỉ tiêu doanh thu, lợi nhuận sau thuế và nộp ngân sách nhà nước thực tế cũng đều vượt so với kế hoạch. Cụ thể, doanh thu thực tế là 73.598,25 tỷ đồng, vượt 4%, chỉ tiêu lợi nhuận sau thuế đạt 4.492 tỷ đồng, đạt gần gấp 5 lần so với kế hoạch. Điều này càng thêm ý nghĩa khi biết trong năm 2016, giá dầu thô thế giới có nhiều biến động mạnh, có lúc xuống dưới 30 USD/thùng đã làm cho doanh thu và lợi nhuận sau thuế của BSR năm 2016 sụt giảm so với năm 2015, nhưng tỉ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu (ROE) vẫn đạt được khá cao với mức 14,2%.
Phát huy kết quả đã đạt được, năm 2017, BSR đặt kế hoạch thực hiện vượt các chỉ tiêu từ 15 - 20%. Đáng mừng, kết quả sản xuất kinh doanh quý I/2017 của doanh nghiệp đang cho thấy những dấu hiệu hết sức khả quan. Trong quý đầu tiên của năm, sản lượng sản xuất và tiêu thụ đạt 1,7 triệu tấn sản phẩm các loại, doanh thu trên 21 ngàn tỷ đồng, nộp ngân sách Nhà nước trên 2,5 ngàn tỷ đồng.
Trước tình hình giá dầu có sự biến động mạnh nhưng BSR vẫn giữ vững được kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh luôn đạt hiệu quả cao như đã nêu ở trên (lợi nhuận đạt 4 - 6 ngàn tỷ đồng/năm - số lượng các doanh nghiệp trong nước có lợi nhuận trên một ngàn tỷ/năm còn rất hạn chế). Vậy, những cơ sở nào khiến BSR đạt được kết quả sản xuất kinh doanh đầy khả quan và liệu BSR có thể duy trì và phát triển nhanh, bền vững hơn trong tương lai không?
Thứ nhất, BSR đã và đang đầu tư vào một hệ thống tài sản cố định hiện đại. Hệ thống tài sản cố định (máy móc thiết bị NMLD Dung Quất) được xây dựng theo tiêu chuẩn quốc tế và đều được nhập khẩu từ các nước G7, rất hiện đại và có độ tin cậy vận hành cao. Hiện BSR đang tiếp tục triển khai công tác đầu tư nâng cấp, mở rộng NMLD Dung Quất, đã hoàn thành công tác thiết kế tổng thể (FEED) và dự kiến hoàn thành công tác nâng cấp, mở rộng NMLD Dung Quất vào cuối năm 2021, khi đó công suất nhà máy tăng thêm 30%, đạt mức 8,5 triệu tấn/năm và đáp ứng được 50 - 60% nhu cầu tiêu thụ xăng dầu trong nước.
Thứ hai, BSR đã chiếm lĩnh được thị phần xăng dầu tương đối lớn ở trong nước (khoảng 30%). Công ty đang hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường, cạnh tranh sòng phẳng với hàng hóa (xăng dầu, LPG…) nhập khẩu. BSR được tự tính giá thành sản phẩm theo hướng thu hút các đầu mối tiêu thụ trong nước. Do vậy, thị phần trong nước của BSR chắc chắn sẽ tăng thêm vì cùng với giá hấp dẫn, BSR còn có lợi thế hơn so với các công ty cùng ngành phải nhập khẩu sản phẩm. Đặc biệt, với việc giá thành xăng dầu nước ta đang thuộc hàng thấp trong khu vực thì BSR có thể mở rộng thị trường bằng việc thực hiện xuất khẩu.
Thứ ba, BSR đã và đang thực hiện nghiên cứu và phát triển (R&D) các sản phẩm mới, có chất lượng cao, thân thiện với môi trường, với mục đích đa dạng hóa danh mục sản phẩm trên cơ sở phù hợp với nhu cầu sử dụng sản phẩm của nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội. Các sản phẩm xăng dầu của BSR hiện nay đều có chất lượng tốt hơn mức tiêu chuẩn. Theo quy chuẩn Việt Nam, hàm lượng lưu huỳnh tối đa của xăng là 500 phần triệu nhưng xăng của BSR chỉ có hàm lượng từ 30 - 135 phần triệu. Tiêu chuẩn của Việt Nam cho phép tối đa 2,5% lượng benzen và aromat trong xăng, nhưng xăng của BSR chỉ có hàm lượng benzen 1,15 - 1,46%. Ngoài ra, dòng sản phẩm dầu diesel ô tô của BSR cũng có lượng lưu huỳnh thấp, ít khí thải độc hại. Đồng thời, sau khi nâng cấp, mở rộng nhà máy, các sản phẩm xăng dầu của BSR sẽ hoàn toàn đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng EURO 5. Như vậy, BSR đã và đang tặng cho người tiêu dùng và môi trường Việt Nam một món quà “chất lượng vàng”.
Bên cạnh đó, BSR đã xây dựng hệ thống quản lý tích hợp chất lượng, an toàn sức khỏe nghề nghiệp và môi trường trên phạm vi toàn công ty để quản lý đồng bộ theo các tiêu chuẩn quốc tế ISO 9001:2015, ISO 14001:2015, OHSAS 18001 và đang triển khai xây dựng hệ thống quản lý tiết kiệm năng lượng ISO 50001:2011.
Hệ thống xử lý môi trường của BSR luôn tốt hơn so với tiêu chuẩn. Nước thải từ nhà máy đạt tiêu chuẩn cột B, có nghĩa là có thể dùng cho hệ thống tưới tiêu và cá sinh sống tự nhiên trong hồ nước thải. Phòng thí nghiệm của BSR đã được cấp chứng chỉ công nhận phù hợp với các yêu cầu của tiêu chuẩn ISO 17025, được trang bị thiết bị tiên tiến bậc nhất trong lĩnh vực chế biến dầu khí, có thể thực hiện được tất cả phép thử cho toàn bộ sản phẩm lọc hóa dầu của nhà máy và được công nhận là một trong những phòng thí nghiệm hiện đại nhất, chính xác nhất châu Á - Thái Bình Dương.
Hiện nay, công suất của NMLD mới chỉ đáp ứng được trên 30% nhu cầu xăng dầu trong nước, phần lớn nhu cầu xăng dầu còn lại phải nhập khẩu từ nước ngoài (năm 2018 cùng với sự ra đời của NMLD Nghi Sơn thì hai nhà máy cũng chỉ đáp ứng được 80% nhu cầu thị trường). Với nhu cầu lớn của thị trường về dòng sản phẩm của BSR, khả năng mở rộng được thị trường tiêu thụ, BSR đang tận dụng được mức độ tác động tích cực của đòn bẩy kinh doanh. Điều này sẽ làm cho lợi nhuận trước lãi vay và thuế của BSR gia tăng mạnh khi chỉ cần tăng một lượng nhỏ sản phẩm tiêu thụ, từ đó sẽ đem đến lợi nhuận sau thuế và tỉ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của BSR gia tăng nhanh. Ngoài ra, có thể thấy các quyết định đầu tư của BSR luôn gắn liền với việc bảo vệ môi trường, một trong những mục tiêu quan trọng của nước ta trong tình hình hiện nay.
Với vai trò dẫn đầu trong ngành lọc hóa dầu ở Việt Nam, cùng hệ thống quản trị được xây dựng theo tiêu chuẩn quốc tế, nguồn lực tài chính vững mạnh, giá bán sản phẩm cạnh tranh sòng phẳng trên thị trường và với chiến lược tập trung chế biến sâu, đầu tư vào hóa dầu trong tương lai thì tiềm năng tăng trưởng của BSR trong các năm sắp tới còn rất lớn, khi đó chắc chắn BSR sẽ đạt được các kế hoạch và mục tiêu đã đề ra. Bằng chiến lược phát triển và kế hoạch kinh doanh hợp lý, hoàn toàn có cơ sở để tin rằng BSR sẽ sớm trở thành một trong những công ty hàng đầu trong lĩnh vực lọc hóa dầu ở khu vực châu Á.
Để triển khai thực hiện công tác cổ phần hóa BSR theo kế hoạch đã được Chính phủ phê duyệt, ngày 31/5/2017 Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh đã ký Quyết định số 1938/QĐ-BCT về việc xác định giá trị BSR để cổ phần hóa là 3,2 tỷ USD.
http://thoidai.com.vn
Ý kiến của bạn