Nhiều doanh nghiệp Việt bị lừa ở Lào, Campuchia vì tin “cò” dự án
Nhiều doanh nghiệp Việt Nam sang Lào và Campuchia đầu tư nhưng không thông báo với cơ quan quản lý, bị “cò” dự án lừa đảo...
Các dự án đầu tư của doanh nghiệp Việt vào lĩnh vực nông - lâm nghiệp tại Lào và Campuchia chủ yếu là trồng cây cao su.
Nhiều doanh nghiệp Việt Nam sang Lào và Campuchia đầu tư nhưng không thông báo với cơ quan quản lý, tham tán thương mại, bị “cò” dự án lừa đảo mất trắng hàng triệu USD…
Phát biểu tại hội thảo “Đầu tư nông nghiệp của Việt Nam tại Campuchia và Lào: Lợi ích, tác động và thách thức”, ông Đoàn Thanh Nghị, đại diện Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), cho biết tính đến nay Việt Nam đã đầu tư sang Lào hơn 5 tỷ USD, sang Campuchia gần 3 tỷ USD.
Lĩnh vực đầu tư chủ yếu của Việt Nam tại Lào và Campuchia là nông - lâm nghiệp, viễn thông, khai khoáng, dịch vụ khám chữa bệnh… Các dự án đầu tư của doanh nghiệp Việt vào lĩnh vực nông - lâm nghiệp tại Lào và Campuchia chủ yếu là trồng cây cao su.
Hiện, Việt Nam có 72 dự án đầu tư trồng cao su, với tổng vốn đầu tư đăng ký gần 2,2 tỷ USD. Tập đoàn Công nghiệp cao su Việt Nam (VRG) hiện đầu tư 23 dự án trồng cao su tại Lào, Campuchia. Công ty Cổ phần Hoàng Anh Gia Lai có 4 dự án trồng cao su tại hai nước này.
Đại diện Cục Đầu tư nước ngoài cũng cho rằng, lượng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài khẳng định được sự lớn mạnh của doanh nghiệp Việt Nam nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung.
Tuy nhiên, theo vị này, doanh nghiệp Việt cũng gặp không ít khó khăn khi đầu tư ra nước ngoài, cụ thể là Lào và Campuchia.
Theo đó, hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư tại Lào, Campuchia đang trong quá trình sửa đổi, hoàn thiện nên có nhiều thay đổi, chưa thống nhất và khó tiếp cận.
Thời gian vừa qua, Chính phủ Campuchia có sự thay đổi đột ngột về chính sách đất tô nhượng như dừng cấp đất để thực hiện các dự án đầu tư nông - lâm nghiệp hoặc thay đổi thời hạn giao đất từ 70 năm, 90 năm xuống còn 50 năm đối với tất cả các dự án, kể cả dự án đã giao đất, cấp phép đầu tư trước đây; áp dụng hồi tố về thời hạn giao đất, cho thuê đất…
Đây là những thay đổi đang gây khó khăn cho nhà đầu tư, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư.
Một số dự án cao su cũng gặp nhiều khó khăn do quỹ đất phía chính quyền Campuchia chưa cấp đủ cho nhà đầu tư Việt Nam như thỏa thuận.
Ngoài ra, khó khăn còn ở chỗ lực lượng lao động của Campuchia tại vùng dự án thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Trong khi đó, theo quy định của Campuchia, nhà đầu tư Việt Nam chỉ được sử dụng 10% lao động Việt Nam để triển khai thực hiện dự án.
Điều này đang gây khó cho một số dự án, như dự án trồng 6.310 héc ta cao su của Công ty Cổ phần Cao su Dầu Tiếng- Kratie, dự án trồng cao su của Công ty TNHH MTV Cao su Đăk Lăk, dự án trồng và khai thác cao su của Công ty TNHH Bất động sản Phú An.
Ông Phạm Quang Tú, thuộc Tổ chức Oxfam tại Việt Nam, cho hay, thời điểm 2007-2008, khi giá cao su tăng cao, có làn sóng đầu tư của Việt Nam sang Lào và Campuchia (để xin cấp đất trồng cao su). Tại không ít địa bàn mà Oxfam đến khảo sát đều thấy xảy ra việc tranh chấp, xung đột về đất đai giữa công ty và người dân sở tại.
Thậm chí, theo dẫn chứng của Oxfam, nhiều doanh nghiệp Việt Nam sang đầu tư nhưng không thông báo với các cơ quan quản lý, tham tán thương mại, chỉ đến khi phát hiện lừa đảo mới liên lạc với các tổ chức nên rất khó để hỗ trợ.
Việc lừa đảo thường rất tinh vi và phần lớn thông qua các quan hệ cá nhân có quen biết. Các “cò” dự án thậm chí còn photo đầy đủ cả bộ hồ sơ, bản đồ đất đai của dự án để bán cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Nhiều người nhẹ dạ bỏ hàng triệu USD để mua dự án nhưng sang đến nơi mới biết dự án không có thật hoặc thuộc sở hữu của đơn vị khác. Cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam đã từng phải gửi thư cảnh báo về tình trạng lừa đảo đầu tư tại Lào và Campuchia.
Từ những bất cập đó, Cục Đầu tư nước ngoài kiến nghị hai phía cần tăng cường hợp tác chặt chẽ trong việc trao đổi thông tin, xây dựng cơ chế chính sách, khai thác có hiệu quả các nguồn lực để tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh minh bạch, ổn định.
Đồng thời, đề nghị phía Campuchia khi xây dựng chính sách mới không được hồi tố đối với các dự án đã cấp cho nhà đầu tư nước ngoài, trong đó có Việt Nam. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của nhà đầu tư, phía Campuchia dễ bị các nhà đầu tư kiện ra tòa quốc tế.
Ngoài ra, xem xét việc miễn visa cho lao động nước ngoài sang làm việc cho các dự án đầu tư của Việt Nam tại Campuchia.
Phát biểu tại hội thảo “Đầu tư nông nghiệp của Việt Nam tại Campuchia và Lào: Lợi ích, tác động và thách thức”, ông Đoàn Thanh Nghị, đại diện Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), cho biết tính đến nay Việt Nam đã đầu tư sang Lào hơn 5 tỷ USD, sang Campuchia gần 3 tỷ USD.
Lĩnh vực đầu tư chủ yếu của Việt Nam tại Lào và Campuchia là nông - lâm nghiệp, viễn thông, khai khoáng, dịch vụ khám chữa bệnh… Các dự án đầu tư của doanh nghiệp Việt vào lĩnh vực nông - lâm nghiệp tại Lào và Campuchia chủ yếu là trồng cây cao su.
Hiện, Việt Nam có 72 dự án đầu tư trồng cao su, với tổng vốn đầu tư đăng ký gần 2,2 tỷ USD. Tập đoàn Công nghiệp cao su Việt Nam (VRG) hiện đầu tư 23 dự án trồng cao su tại Lào, Campuchia. Công ty Cổ phần Hoàng Anh Gia Lai có 4 dự án trồng cao su tại hai nước này.
Đại diện Cục Đầu tư nước ngoài cũng cho rằng, lượng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài khẳng định được sự lớn mạnh của doanh nghiệp Việt Nam nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung.
Tuy nhiên, theo vị này, doanh nghiệp Việt cũng gặp không ít khó khăn khi đầu tư ra nước ngoài, cụ thể là Lào và Campuchia.
Theo đó, hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư tại Lào, Campuchia đang trong quá trình sửa đổi, hoàn thiện nên có nhiều thay đổi, chưa thống nhất và khó tiếp cận.
Thời gian vừa qua, Chính phủ Campuchia có sự thay đổi đột ngột về chính sách đất tô nhượng như dừng cấp đất để thực hiện các dự án đầu tư nông - lâm nghiệp hoặc thay đổi thời hạn giao đất từ 70 năm, 90 năm xuống còn 50 năm đối với tất cả các dự án, kể cả dự án đã giao đất, cấp phép đầu tư trước đây; áp dụng hồi tố về thời hạn giao đất, cho thuê đất…
Đây là những thay đổi đang gây khó khăn cho nhà đầu tư, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư.
Một số dự án cao su cũng gặp nhiều khó khăn do quỹ đất phía chính quyền Campuchia chưa cấp đủ cho nhà đầu tư Việt Nam như thỏa thuận.
Ngoài ra, khó khăn còn ở chỗ lực lượng lao động của Campuchia tại vùng dự án thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Trong khi đó, theo quy định của Campuchia, nhà đầu tư Việt Nam chỉ được sử dụng 10% lao động Việt Nam để triển khai thực hiện dự án.
Điều này đang gây khó cho một số dự án, như dự án trồng 6.310 héc ta cao su của Công ty Cổ phần Cao su Dầu Tiếng- Kratie, dự án trồng cao su của Công ty TNHH MTV Cao su Đăk Lăk, dự án trồng và khai thác cao su của Công ty TNHH Bất động sản Phú An.
Ông Phạm Quang Tú, thuộc Tổ chức Oxfam tại Việt Nam, cho hay, thời điểm 2007-2008, khi giá cao su tăng cao, có làn sóng đầu tư của Việt Nam sang Lào và Campuchia (để xin cấp đất trồng cao su). Tại không ít địa bàn mà Oxfam đến khảo sát đều thấy xảy ra việc tranh chấp, xung đột về đất đai giữa công ty và người dân sở tại.
Thậm chí, theo dẫn chứng của Oxfam, nhiều doanh nghiệp Việt Nam sang đầu tư nhưng không thông báo với các cơ quan quản lý, tham tán thương mại, chỉ đến khi phát hiện lừa đảo mới liên lạc với các tổ chức nên rất khó để hỗ trợ.
Việc lừa đảo thường rất tinh vi và phần lớn thông qua các quan hệ cá nhân có quen biết. Các “cò” dự án thậm chí còn photo đầy đủ cả bộ hồ sơ, bản đồ đất đai của dự án để bán cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Nhiều người nhẹ dạ bỏ hàng triệu USD để mua dự án nhưng sang đến nơi mới biết dự án không có thật hoặc thuộc sở hữu của đơn vị khác. Cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam đã từng phải gửi thư cảnh báo về tình trạng lừa đảo đầu tư tại Lào và Campuchia.
Từ những bất cập đó, Cục Đầu tư nước ngoài kiến nghị hai phía cần tăng cường hợp tác chặt chẽ trong việc trao đổi thông tin, xây dựng cơ chế chính sách, khai thác có hiệu quả các nguồn lực để tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh minh bạch, ổn định.
Đồng thời, đề nghị phía Campuchia khi xây dựng chính sách mới không được hồi tố đối với các dự án đã cấp cho nhà đầu tư nước ngoài, trong đó có Việt Nam. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của nhà đầu tư, phía Campuchia dễ bị các nhà đầu tư kiện ra tòa quốc tế.
Ngoài ra, xem xét việc miễn visa cho lao động nước ngoài sang làm việc cho các dự án đầu tư của Việt Nam tại Campuchia.
http://vneconomy.vn
Ý kiến của bạn