TRUYỀN THUYẾT ĐỀN ĐỒNG BẰNG - THÁI BÌNH
Biên soạn, Duy Khanh* Vào thời Hùng Vương 18, Đất nước Văn Lang - Lạc Việt giữa buổi thịnh trị, Vua sáng tôi hiền, dân miền duyên hải còn rất thưa thớt, làm nghề chài lưới và nông tang …Ngày ấy, Sông Vĩnh cổ ( tức sông Đồng Bằng, thuộc xã An Lễ bây giờ ) còn rất rộng, tương truyền lại còn có cả các loài thuỷ quái, thuồng luồng, giao long sinh sống ...
Vào thời Hùng Vương 18, Đất nước Văn Lang - Lạc Việt giữa buổi thịnh trị, Vua sáng tôi hiền, dân miền duyên hải còn rất thưa thớt, làm nghề chài lưới và nông tang …Ngày ấy, Sông Vĩnh cổ ( tức sông Đồng Bằng, thuộc xã An Lễ bây giờ ) còn rất rộng, tương truyền lại còn có cả các loài thuỷ quái, thuồng luồng, giao long sinh sống ... Dân đất Hoa Đào trang( vùng An Lễ bây giờ ) cư trú dọc bên sông, nghề chính là trồng dâu nuôi tằm, dệt vải và khai khẩn bãi bồi, canh tác nông nghiệp, kết hợp chài lưới đánh bắt tôm cá trên sông …
Khi Hùng Duệ Vương đã lên tuổi Kỳ lão ( tức tuổi 60 - ngày ấy, 60 tuổi chắc là đại thượng thọ ) mà vẫn chưa có con trai nối dõi. Vua rất phiền lòng …Sinh hạ nhiều, nhưng chỉ còn lại 2 Công chúa: Công chúa lớn là Tiên Dung trời se duyên cùng Chử Đồng Tử, rồi cùng tu tiên không về ... Công chúa em là Mỵ Nương, lấy Tản viên Sơn Thánh …
Vua đã vài lần gợi ý trao Vương miện cho Sơn Thánh, nhưng Sơn Thánh quyết không nhận, gặp những kỳ đất nước hữu sự, ngài về Triều giúp Vua Cha, yên sự lại về Tản viên tu đạo, chứ không màng quan tước ... Chính vì thế, có nhiều thế lực nhòm ngó Ngai Vàng còn chưa có người kế vị. Các nước láng giềng ở Bắc phương, cùng lân bang Vạn Tượng, Ai Lao …cùng nung nấu ý đồ thôn tính Văn Lang - Lạc Việt .
Lạc Long Quân từ ngày trao quyền cho con là Hùng Vương trị vì đất nước, trở về biển Đông, nhưng vẫn thường theo dõi rất sát thế sự Lạc Việt, trước những hiểm hoạ có thể sảy ra, Long Quân lấy làm lo lắng không yên ... Bấy giờ, Long Quân đang sống cùng người ái thiếp, (tương truyền bà chính là Ngọc nữ trong Cung Tây Vương Mẫu, lỡ tay đánh vỡ chén Ngọc lưu ly, nên bị đày xuống Đông Hải ) bà sinh cho Long Vương 1 người con trai … Đó là Thái Tử Giao Long, tài đức siêu quần, khi Hà bá sông Cái ( tên sông Hồng cổ ) vì không lấy được Mỵ Nương, nên tức tối đại tác thuỷ hoạ cho dân, Long Vương sai Thái Tử giúp Sơn Thánh dẹp yên và bắt Thuỷ tinh về trị tội …
Sự lo lắng của Long Quân về nguy cơ Lạc Việt làm cho mẹ con Thái Tử cũng trăn trở không yên, nhưng sợ can thiệp trực tiếp sẽ phạm cơ Trời, nên cứ than thở bất an , sầu muộn ...
Rồi Thái Tử cũng trình lên Vua Cha được 1 kế sách trọn vẹn, đó là cho phép chàng và hai em thác sinh thành kiếp người trần, là con dân nước Lạc Việt ...chỉ có thế, chàng mới giúp các bậc huynh trưởng giữ lấy giang sơn mà không phạm luật Trời ... ( theo truyền thuyết này , đúng là quan hệ giữa Hùng Vương và Thái tử Giao Long là anh em cùng cha khác mẹ , đó cũng là 1 lý do để sau này , Đền Bát Hải Động Đình lại được dân gian gọi là Đền Đức Vua ) ... Vì tình thế cấp bách, Lạc Long Quân đành y theo kế của con ... Cả Long vương và Ngọc thiếp cùng phối hợp thực hiện kế sách này ... để Thái Tử được thác sinh chính thức thành con dân Lạc Việt ...
... Và thế là ...trên bờ sông Vĩnh, thuộc Đào Hoa Trang, Trấn Sơn Nam, Quận Giao Chỉ ...xuất hiện 1 cô gái vị thành niên, không cha không mẹ, mò cua bắt ốc bên sông, ai hỏi thì xưng là người phương Bắc phiêu bạt tới đất này( tương truyền , đó chính là hoá thân của bà Thiếp Ngọc nữ của Long Quân, tạo cơ sở cho Thái tử đầu thai thành dân đất Việt ) ... Ngày ấy, có 2 vợ chồng ( ông Phạm Túc, bà Trần thị - Sử cổ ghi rõ) là người Trang An Cố ( thuộc Thuỵ Anh - Thái Bình ngày nay ) đã lớn tuổi, sống phúc hậu mà không có con ... Một lần, họ ngược dòng đánh cá đến Trang Hoa Đào ( đất An Lễ , nơi toạ lạc Đền Đức Vua bây giờ ) và tình cờ gặp cô gái nhỏ bên sông Vĩnh, ông bà đón cô gái về nuôi tại An Cố, đặt tên là Quý Nương ...Mấy năm sau, khi tròn 18 tuổi, Quý Nương rất xinh đẹp, đoan trang ...Nhưng không nhận lời cầu hôn của ai cả ... Ông bà Phạm Túc bị bệnh rồi lần lượt qua đời, Quý Nương lưu lại An Cố để hương khói báo hiếu cho bố mẹ nuôi ...
Một lần Quý Nương ra cửa sông tắm, đang trời yên biển lặng, bỗng sóng gió nổi lên dữ dội, rồi thấp thoáng bóng 1 con Hoàng Long hiện lên quấn chặt lấy nàng ...Một lát sau, khi sóng gió qua đi, Quý Nương thấy mình nằm trên bãi sông ...
Một thời gian sau, bỗng thấy mình có thai, Quý Nương rời An Cố trở về quê Hoa Đào trang sinh sống ... Bà có thai đúng 13 tháng, vào đúng đêm ngày mồng 10 tháng giêng ( sử cổ ghi rõ) bà sinh ra 1 cái bọc, giữa ánh hào quang phát sáng rực ...Quý Nương sợ hãi, ôm bọc thai thả xuống sông Vĩnh ... Cũng đêm ấy, có 1 người cất vó bên sông... Ông thấy cái bọc đã được mình cầm vứt ra nhiều lần mà cứ cố tình trôi vào vó, cực chẳng đã ông đành rạch bọc ra ... ánh sáng phát chói loà, ông kinh hãi thấy từ trong bọc chui ra 3 con Hoàng Xà, đầu Rồng mình rắn ...Con lớn nhất ( chính là Thái Tử giao Long ) vượt sông lên bờ, chui vào náu thân trong 1 giếng nước ( đó chính là giếng thiêng trong Cấm cung Đền Đồng Bằng bây giờ, truyền thuyết còn nói rằng: ông kéo vó khi rạch bọc, lưỡi dao đã vô tình làm đứt 1 thuỳ đuôi của con Hoàng Xà lớn, vì thế xưa kia các bản Hội về cúng mô hình Giao long tại Đền Đồng Bằng, bao giờ cũng làm vát 1 thuỳ đuôi là theo tích này ), còn 2 Hoàng Xà nhỏ, bơi xuôi theo dòng nước chảy dọc sông Vĩnh, 1 con giạt vào Thanh Do Trang ( thuộc Thái Ninh bây giờ ), con nhỏ nhất bơi đến tận An Cố trang ( Mai Diêm - Thuỵ Anh ) ...
Cũng đêm ấy, dân Đào Hoa trang thấy trời nổi sấm rền, rồi từ trên không trung có tiếng nói vang động:" Ta là con của Long Quân, khi có giặc sẽ giúp Vua Hùng diệt giặc "... Hôm sau , dân bản hạt đến bên giếng cạn đắp ụ đất, tạm lấy lá chuối ghi chữ đánh dấu, rồi sau lập thành Miếu thờ, từ đó hương khói cầu "phong đăng hoà cốc " thấy rất linh nghiệm ... ( đôi câu đối chạm hình lá chuối treo trong Cấm cung cũng là từ tích này ).
Lại nói: Vua Hùng ngày ấy đã già, lại không con trai nối dõi ...Vua thường buồn bã, hay đau yếu ... làm lo lắng cho trăm quan triều chính ...Có nhiều thế lực trong nội bộ Bách Việt, muốn nhòm ngó Ngai vàng Lạc Việt ... như bộ tộc Âu Việt, do Thục Vương cai quản ( nguyên gốc xưa là người Trung Nguyên di cư xuống phía nam, từ lâu đã thành dân Bách Việt, và cũng chính là phụ thân của Thục Phán ) ... Chuyện kể rằng: Khi Mỵ Nương đến tuổi lấy chồng, nhan sắc tuyệt vời, phong tư đoan chính ...Thục Vương mê lắm, rất muốn cưới về làm thiếp ... Vua Hùng cũng có ý ưng thuận, nhưng các Lạc tướng can rằng: "Thục Vương từ lâu nhòm ngó nước Văn Lang của dân Lạc Việt ta, giờ Vua lại gả Mỵ Nương cho y, khác gì đưa hổ vào tận trong nhà "... Vì thế Vua Hùng không gả con cho: rồi lại đem gả cho Sơn Tinh ... Thục Vương giận lắm, thề dù có phải đến đời con sau này cũng sẽ quyết thôn tính bằng được Lạc Việt ...
... Khoảng vài năm sau ...Thấy thời cơ đã đến, các nước lân bang như Ai lao , Vạn tượng , Chiêm thành ...hợp sức cùng quân phương Bắc, nhân Vua Hùng già yếu đã hẹn phối hợp xâm lấn nhằm thôn tính Lạc Việt, Họ được 1 số bộ lạc trong Bách Việt như Âu Việt , Mân Việt, Nam Việt ... nội ứng , cùng chỉnh sức "tinh binh bách vạn " , tuyển " Phì mã tam thiên ", tức là tập hợp hàng trăm vạn tinh binh, ngựa khoẻ,Quân đường bộ chia làm 5 đạo, hẹn đợi cánh quân đường thuỷ từ phương Bắc xuống , khi nào quân phương Bắc đã phong toả 8 cửa biển Lạc Việt, thì cả thuỷ, lục các đạo đều cùng 1 lúc tiến quân ... Thanh thế của giặc chấn động cả biên thuỳ, thư cấp báo đưa tin giặc dữ truyền về Kinh đô "1 ngày đến 5 lượt" ...
Hùng Duệ Vương rất lo lắng trước thế giặc quá mạnh, liền cho người đi mời Sơn Thánh về Kinh hiến kế phá giặc, Sơn Thánh lập tức từ Tản Viên hồi Triều, Hùng vương ngạc nhiên thấy Sơn Thánh ung dung thư thái ... Vương trách: " Một ngày có đến 5 tin hoả tốc cấp báo, thế giặc như lũ bão, chẳng lẽ Khanh không lo sao ?". Sơn Thánh tâu rằng: " Trải qua 17 đời Vua Hùng, những bậc quân vương đều là Thánh hiền, việc nghĩa nhân đã dày và nhuần thấm, thương dân như con, ân tình ghi vào cốt tuỷ, đó là 1 thế mạnh. Nước Văn Lang - Lạc Việt ta hiện nay đang độ quốc phú, binh cường, bệ hạ uy đức lan xa đến hải ngoại, thấu đến trời đất, vì thế Trời đã "đã giáng anh tài" xuống làm dân đất Việt, để mà hộ quốc cứu dân đó thôi !". Vua Hùng hỏi, Sơn Thánh thưa:" Đó là Long cung Hoàng Thái Tử đã thác sinh, đang náu ở Hoa Đào Trang, thuộc Sơn Nam Hạ, họ có 3 anh em khí độ vượt nhân, kinh luân đứng đầu kim cổ, văn võ kiêm tài ... Trời lại cho giáng trần thêm mấy anh tài hiện đang làm con dân Lạc Việt ( ý nói về các Quan lớn của Vĩnh công ). có thể đảm đương việc cự địch xâm lăng đường biển ... Nước Việt ta lại còn có "sơn thuỷ bách Thần" từ ngày lập nước rất linh ứng , hay hiển linh để phù trợ ... Bởi vậy Bệ hạ chẳng phải quá lo ... kẻ địch dấy binh vô đạo, tất sẽ " thủ bại". Bệ hạ nên cử Thái Tử Long cung trấn giữ và đánh giặc tại các " giang môn, yếu hải ", còn thần nguyện đích thân tiên phong cự địch tại các cánh đường bộ ... Thần đồ rằng chỉ vài hôm là giặc tan ". Duệ Vương nghe nói cả mừng, lập tức lệnh lập Đàn cầu Trời ứng trợ, tuần hương vừa tàn, thì Thanh Y Tiên Ông lai giáng, mách Vua cho người về Hoa Đào trang mà triệu, sẽ có dị nhân đánh tan giặc biển.
Hùng Vương cả mừng, sai sứ giả về Hoa Đào trang ( tức đất An Lễ bây giờ ) để truyền chỉ dụ triệu kỳ nhân dẹp giặc ... Khi Sứ giả về hỏi, dân thôn kể về việc Giao Long ẩn thân trong giếng cạn trước đây ... Sứ giả đến bên giếng xướng truyền sắc chỉ thì thấy Hoàng Xà hiện ra rồi bỗng hoá thành 1 chàng trai lực lưỡng, tuấn tú hơn người ... Ngài nhận chỉ dụ, nhờ sứ giả báo với Vua Hùng là sẽ triệu 2 em, tuyển 10 tướng, chiêu mộ binh sĩ trong 10 ngày, rồi xuất quân đánh giặc trên cả 8 cửa biển nước Nam, hứa sau 3 ngày là giặc tan ... từ đó , ngài có tên là Vĩnh Công ( trọng nhân phát tích trên sông Vĩnh ) ...
Tương truyền, ngay ngày tuyển mộ đầu tiên, Vĩnh công đã chọn được 3 tướng là Quan lớn Thượng ( quan lớn đệ nhất ), quan đệ Tam và Quan đệ Tứ ...Trai tráng duyên hải kéo đến đầu quân rất đông, nhưng đến trưa ngày thứ 10 theo hẹn, vẫn thiếu 1 tướng ... Vĩnh công lập đàn cầu, trời điều Tam Thái Tử xuống đầu quân, ngài giáng xuống Bảo Hà ( Lào Cai), tương truyền thấy 1 tiếng sét dữ dội tại đó, rồi một luồng hào quang bay về nơi Vĩnh công tuyển tướng, tụ thành 1 chàng trai tuấn tú xin ứng tuyển, đó chính là Quan Điều Thất .
Sau khi chọn được quan Điều Thất, đủ số 10 tướng, Vĩnh công còn chọn được 1 mưu sĩ tài ba, quê ở Nuồi ( Tứ Kỳ - Hải Dương ) làm quân sư ( vì thế sau này có lệ giao Trải với Nuồi ). Xếp dưới 10 vị Đại tướng và 1 vị quân sư, Vĩnh Công còn lựa được 28 vị Nội tướng tài ba ( Ngài xếp theo đúng số Nhị thập bát Tú của trời ) ... Để thể hiện tình nghĩa ruột thịt cùng xả thân vì xã tắc, không câu nệ danh vọng, Vĩnh công tuỳ tuổi mà phân thứ bậc các tướng ...
Trên 2 mũi tấn công chủ yếu bằng đường thuỷ của giặc phương Bắc là cửa sông Cái ( sông Hồng ) và cửa sông Bạch Đằng ... Vĩnh công cùng Quan lớn Thượng chặn giặc ở cửa sông Cái, Quan lớn đệ Tam cùng Quân sư Nuồi và quan đệ Ngũ chặn giặc tại cửa sông Bạch Đằng, Quan Điều Thất phụ trách ứng chiến và phối hợp tác chiến cùng các cánh quân chặn giặc đường bộ của Sơn Thánh, các vị Quan lớn khác đều được phân công đánh giặc trên 6 cửa biển khác của Nước Nam ...Đúng hẹn 3 ngày, Vĩnh công cùng tướng sĩ đánh tan giặc dữ trên cả 8 cửa biển .
Thấy cánh quân đường thuỷ hùng mạnh của phương Bắc bị đại bại, nhiều cánh quân xâm lược đường bộ do các bộ lạc của Bách Việt, được sự giúp sức của các nước Ai Lao, Vạn Tượng ...đang cố quyết chiến cùng quân Lạc Việt do Sơn thánh chỉ huy, nghe tin đều hoảng sợ, vội vã rút nhanh về nước ...Đất nước trở lại thanh bình, Hùng Duệ Vương triệu Vĩnh công về Triều, phong là " Vĩnh Công Nhạc phủ thượng đẳng thần ", lại có ý muốn lưu ở Kinh đô giúp việc Triều chính ...
Vĩnh Công xin được về quê để trông nom thân mẫu, khai khẩn vùng duyên hải, chiêu dân lập ấp, dạy dân nghề nông tang ( trồng dâu nuôi tằm, dệt vải ), đồng thời giúp Vua Hùng giữ yên 8 cửa biển Lạc Việt. Mười tướng theo Vĩnh công về Hoa Đào Trang. Quan Điều Thất về Trời ngay sau khi thắng giặc, Vĩnh công thương xót cho lập ban thờ ngay tại dinh Công đồng, là nơi Vĩnh công cùng chư tướng tề tựu bàn việc ( đó chính là Đền thờ quan Điều Thất ngày nay, thường gọi là Đền Công Đồng ). Quan lớn đệ Tam được phân công giữ yên vùng duyên hải từ sông Cái lên hết biên giới biển phía bắc Lạc Việt ( từ tích quan lớn đệ Tam thắng giặc trên cửa sông Bạch Đằng, rồi lại tỵ nhậm cai quản vùng này ... Nên các đời sau, khi đánh giặc trên sông Bạch Đằng, các quân vương đều về cầu và tạ tại đền đức Vua và Đền quan đệ Tam, vì cho rằng được âm phù mà chiến thắng )... Quan lớn đệ Thập được tỵ nhậm tại Cửu Chân, Quan đệ Tứ được phân công khai khẩn vùng bãi bắc Sơn Nam ...
Có 5 vị Nội tướng được Vĩnh Công giao sở nhiệm khai khẩn chăm dân lập Ấp tại Hoa Đào trang ( sau chính là 5 vị Thành Hoàng nổi tiếng linh ứng, đã có công âm phù Trưng Vương đánh thắng quân Tô Định tại Sơn Nam hạ ) ...
Vĩnh công lấy 10 hốt vàng được Vua Hùng ban thưởng để chia cho dân bản hạt làm vốn canh tác. Miền duyên hải Lạc Việt từ đó dân cư ngày càng đông đúc, phồn thịnh ... Vua Hùng trao Vĩnh công quản lý miền duyên hải Lạc Việt, lấy tên là Tây Đô.
Tương truyền, định kỳ hàng năm, nhân ngày đại thắng quân phương Bắc trên 8 cửa biển, Vĩnh công triệu chư tướng về tề tựu tại Hoa Đào trang ( đất An Lễ bây giờ, theo ghi chép của các cụ thì ngày ấy gọi là Hoa Đào trang, 1 trong các trang ở vùng bãi sông Vĩnh, trấn Sơn Nam hạ, bộ Thang Truyền, quận Giao Chỉ, thuộc Châu Giao chỉ trong Bách Việt, phía tây nam nước Hoa Hạ của nhà Hán ). Trong những kỳ hội tụ này, Vĩnh công mở tiệc khao thưởng, cùng chư tướng đàm đạo về tình hình, vạch kế sách khai khẩn, chăm dân và giữ yên miền duyên hải theo uỷ thác của Vua Hùng .
Tương truyền, trong những ngày vui này, Vĩnh công thường tổ chức thi bơi thuyền, giữa đội thuyền bản hạt và thuyền của các tướng, thuyền của quân sư Nuồi, để ôn lại chiến thắng, tập dượt phòng thủ và luyện quân sẵn sàng ứng phó mọi biến cố ...Đường đua thuyền là 1 đoạn sông Vĩnh " thượng Đồng Đống, hạ Cống Đôi ", lệ thi bơi trải có từ đó và còn tồn tại mãi đến sau này .
Trong những ngày kỷ niệm chiến thắng, ngài còn tổ chức thi Vật, thi võ ... cùng với các trò chơi dân gian khác ( xới vật kề cạnh 1 cây cầu, nên cầu này có tên là cầu Vật, tên cầu Vật vẫn dùng cho đến bây giờ ) ... Vĩnh công còn cho tập hợp các làn điệu dân ca trong vùng, dạy cách hát ứng vận đối đáp để thi hát trong các đêm Hội, gọi là hát Đúm ( 1 kiểu hát giao duyên sân Đình )...Công đức của Vĩnh công rất lớn, vua Hùng rất nể trọng ... Dân Hoa Đào trang cũng như cả vùng duyên hải coi ngài ân tình như cha mẹ ...
Một số năm trôi qua ... Một hôm Vĩnh công mời hương lão đến dinh thất của mình ( tương truyền là chính đất Đền Đức Vua bây giờ ) mà nói rằng:" Ta cùng các vị là dân lân hương ấp, ăn ở với nhau như tình ruột thịt, nay ta sắp phải vâng mệnh về chầu vua cha Lạc Long quân, Nếu có nhớ đến ta, thì nhà ta đây là miếu sở, ngày ta đi sẽ là ngày giỗ ..." . Tất cả hương lão có mặt bùi ngùi, nức nở ... Rồi bỗng thấy trời đất tối sầm, sấm chớp gió mưa đột khởi dữ dội ...Một thoáng, trời quang mây tạnh, mọi người chỉ còn thấy xiêm áo của Vĩnh công ...đó là ngày 25 tháng 8 âm lịch năm Bính Dần. Dân bản hạt lập tức dâng biểu về Kinh , Vua Hùng thương xót, ban phong mỹ hiệu: "Trấn Tây An tam kỳ linh ứng Đại Vương", cấp tiền tang lễ, cho tu sửa dinh thất của Vĩnh công thành miếu điện thờ tự, cho lập "điền tự" để hương hoả cho Vĩnh công mãi mãi ...
Vua Hùng trao cho các tướng của Vĩnh công tiếp tục sự nghiệp tại miền duyên hải Lạc Việt. Từ đó, nhân ngày giỗ Vĩnh Công, các tướng lại tề tựu tại Hoa Đào trang, dâng hương cho Vĩnh công và tổ chức các hình thức kỷ niệm ngày đại thắng như trước đây ... Lâu dần thành lệ Hội tháng 8 âm lịch mà truyền đến ngày nay.
Tương truyền. các tướng của Vĩnh công đều là những anh hùng cái thế. sinh tử vì Lạc Việt và bảo vệ Vua Hùng cho tới ngày Hùng Duệ Vương tuẫn tiết, nước Văn Lang - Lạc Việt sang trang sử mới, gọi là nước Âu Lạc ...
Các tướng của Vĩnh công sau đó, người hoá thần, người tử trận trong chiến đấu bảo vệ đất nước Văn Lang, họ đều được lập đền thờ, được các triều đại sau sắc phong tôn vinh, kính trọng. Tại đất Đào Động có Đền thờ Quan lớn Thượng, Quan lớn đệ Nhị, Quan lớn đệ Tam, Quan lớn Điều Thất, Quan lớn đệ Bát, tĩnh Quan lớn Thượng, tĩnh Quan đệ Tứ, đều được tái tạo dựng trên nền cổ tự. Quan đệ Ngũ thờ tại Đình Giới phúc, tĩnh Quan đệ Lục ( miếu giáp Nhị ) đã bị thực dân Pháp phá huỷ. Quan đệ Tam còn được thờ ở Đền Lảnh giang ( Hưng Yên ), Quan đệ Tứ đền thờ chính ở Vĩnh Bảo - Hải Phòng. Quan đệ Ngũ có đền thờ ở bến đò Chanh - Hải Dương, Quan Điều Thất có Đền ở Bảo Hà - Lào Cai. Quan đệ Cửu xưa có Đền ở Thanh Hoá, Quan đệ Thập có đền ở Nghệ An ...
Đền thờ Vĩnh công Đại Vương Bát Hải Động Đình từ xa xưa đã nổi tiếng linh ứng. Các triều đại sau này như Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn ... đều tái sắc phong cho ngài.
Vĩnh công được coi là Thượng Đẳng Thần của đất Lạc Việt, Hội tháng 8 âm lịch tại Đền, hội tụ muôn phương dân Việt về chiêm bái lễ cầu. Câu thành ngữ dân gian: Tháng 8 giỗ Cha , tháng 3 giỗ Mẹ chính là để chỉ Hội tháng 8 ở Đền Đồng Bằng và Hội tháng 3 ở Đền Mẫu Phủ Dày .
Đền đồng Bằng là nơi "đi trình về tạ" của các bản Hội tín ngưỡng trong toàn quốc từ xa xưa. Vì sao Đền Đồng Bằng thờ Vĩnh công Đại Vương lại có tên là Đền Đức Vua, hay còn gọi là Đền Đức Vua Bát Hải ? Tên này có từ bao giờ ?
Theo các cụ xưa, dựa vào truyền thuyết Vĩnh công chính là Thái Tử Giao Long (như đã thuật ở phần trên, ngài là con vợ thứ của Lạc Long Quân ),Vì thế khi Hùng Vương 18 cáo chung, Vua An Dương Vương Thục Phán lên ngôi, tuy cũng là dân Bách Việt nhưng thuộc dòng ngoại tộc, trong khi Vĩnh công đã hoá thần nhưng cực kỳ linh hiển phù trợ cho dân đất Việt, vì thế mà dân tôn sùng gọi ngài là Đức Vua.
Đền Đồng Bằng hiện nay, còn thờ cả Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, từ năm 1300, sau khi Hưng Đạo Vương qua đời, bài vị của ngài được thờ cạnh bài vị Vĩnh công tại Đền Đồng Bằng .
Từ tư liệu mà các nhà sử học đã nghiên cứu, thời Trần, Vùng đất A Côi, Phụ Phượng ( huyện Quỳnh Phụ bây giờ ) là thái ấp của An Sinh Vương Trần Liễu , phụ thân Trần Hưng Đạo. Trong kháng chiến chống quân Nguyên Mông. đất Đào Động ( Hoa Đào trang cổ xưa, và cũng chính là đất An Lễ bây giờ ) là nơi hội quân của nhà Trần, chuẩn bị cho đại chiến Bạch Đằng ...Người con gái nuôi của Hưng Đạo Vương tên là Trần Thị Thái (hay Hoa Đào Công chúa, sau gả cho Phạm Ngũ Lão, chính là người Đào Động ) .
Để tạo thế liên hoàn thủy bộ cho căn cứ Đào Động phù hợp với việc điều chuyển và tập hợp những đạo quân lớn tại Đào Động, Trần Hưng Đạo cho đào 1 con sông nối thẳng từ khúc quanh phía bắc sông Vĩnh cổ thông xuống biển, đặt tên là sông Tú giang, sau gọi là sông Cô ...
Lại cho khơi một đoạn sông thẳng, nối 2 đầu khúc lượn phía nam sông Vĩnh cổ (gần Đền Đồng Bằng) để tạo ra một tuyến sông thẳng từ của Đại Lẫm(kho lương thực lớn) xuôi qua trước cửa Đền ra biển ... Từ những kênh, sông mới ấy tạo ra một hệ thống thủy đạo thông lợi chưa từng có .
Ngài còn cho mở rộng và cơi cao tuyến đê sông Đào Động ( sông Vĩnh cổ ), tạo ra một "đại lộ" chạy dọc Đào Động trang, vừa để bảo vệ cư dân và mùa màng khỏi nước lụt tràn, vừa để cơ động quân thuận lợi trong căn cứ ...
Bà Trần Thị Thái chọn khu đầm lầy rộng hàng dặm, dài tới 3 dặm, chạy dọc phía đông nam đất Đào Động ( song song với sông Đào Động, tức sông Vĩnh cổ ), đầm lầy này có địa thế lúp xúp lau sậy, giống bãi sông Bạch Đằng ... Bà khoanh vùng, cho canh phòng cẩn mật, để làm nơi luyện thuỷ quân ...
Tương truyền, đội quân Thánh Dực, 1 đội quân thiện chiến thuỷ trận của nhà Trần, được tuyển chọn chủ yếu từ trai tráng Đào Động, và trấn Sơn Nam ...Địa danh Đầm Bà xuất hiện từ đó và tồn tại cho đến ngày nay, với những cái tên gợi cho ta về hoạt động thuyền bè như: Đống Bà Đà (nơi đóng mới và hạ thuỷ tàu thuyền ) , đống Moi (một động thái chèo thuyền), đống Dầm (1 kiểu bơi chèo nhỏ)...
Đền Quan đệ Tam , Đền Quan Thượng ở phía bắc đất Đào Động ( gần đống Đà ) tương truyền là Đại bản doanh của danh tướng Yết Kiêu. Ngày ngày tướng sĩ đến Đầm Bà tập luyện thuỷ chiến. Bà Trần Thị Thái chọn doi đất cạnh thôn Đông nhô ra đầm trũng, làm nơi để dân mang hoa quả, quà bánh đến uý lạo quân sĩ tập luyện, sau đó, từ doi đất này mọc lên nhiều bưởi, tên làng Bưởi còn tồn tại đến ngày nay( tức thôn Giới Phúc ).
Trên vùng chợ Đồng Bằng hiện tại, thời Trần gọi là Thôn Đông, có các di tích : Đình Đông ( Đình tháng 8 ) thờ Thành Hoàng Đường Đô Giám ( một tuỳ tướng của Vĩnh công xưa ), có Quán Trải (lớn đủ gác bảo quản 6 Trải lớn của 6 Giáp , để thi bơi trong Hội tháng 8), Miếu Cảnh Am, Miếu Thu Phan ...Là nơi đóng trại binh trung quân Trần triều .
Dưới Thôn Đông là Thôn Đoài ( giữa đất An Lễ bây giờ ) có Đền quan đệ Nhị , chùa Tây, tĩnh quan đệ Tứ, tĩnh quan đệ Lục ( miếu giáp Nhị). Thời Trần, miếu giáp Nhị là nơi tuyển quân Thánh Dực. Tiếp dưới Thôn Đoài là Thôn Lãng, có Đình Lãng thờ Thành Hoàng " Ba Lãng hãn Vệ Đại vương" ( một trong 5 vị Thành Hoàng đã có công giúp hai Bà trưng diệt quân Tô Định ), thời Trần, đình Lãng là bản doanh của Danh tướng Phò mã Nguyễn chế Nghĩa .
Tiếp đến Thôn Dất, cách Đền Đức Vua 600 mét, là Đình Dất, tương truyền thờ thân Mẫu của Vĩnh Công xưa, đời Trần đình Dất là Bản doanh của Điện Tiền Đô uý Phạm Ngũ Lão. Đền quan đệ Bát cổ, là nơi đóng quân của danh tướng Dã tượng và thớt Voi chiến lừng danh của Trần Hưng Đạo. Con voi chiến được điều về Đào Động cùng với đội voi, ngựa làm nhiệm vụ tải lương, chuẩn bị cho đại chiến Bạch Đằng .
Đường tải lương từ kho tập kết làng Đợi ( xã Đông Hải ) chở lương ra kho lương A Sào ( nghĩa là lúa gạo, hiện nay là Đền A Sào, xã An Thái, gần sông Hoá ). Tại Đào Động, đến nay vẫn còn 1 cánh đồng mang tên Đồng Tượng ( tượng là Voi), tại làng Đợi ( Đông Hải ) vẫn còn hình con Voi đắp bằng vữa để ghi lại sự kiện này. Đền Công Đồng thờ Quan lớn Điều Thất từ thời Hùng vương , đời Trần tương truyền là dinh quân của Danh tướng Trần Quốc Tảng, con trai thứ 3 của Trần Hưng Đạo .
Trần Quốc Tảng là người văn võ song toàn. Có lẽ đây chính là thời điểm sảy ra giai thoại lịch sử: Trần Quốc Tảng khuyên cha nhân được phong là Quốc Công Tiết Chế nắm giữ trọn binh quyền, thì hãy nghĩ đến lời ông nội ( Trần Liễu ), lấy lại ngôi vua cho dòng trưởng ... Hưng Đạo Vương thể hiện lòng trung bằng cách quát chém Trần Quốc Tảng, các quan xin mãi, Hưng Đạo Vương mới tha và đuổi ra trấn giữ Cảng Vân Đồn (cửa Ông, Quảng Ninh bây giờ). Khi đoàn chiến thuyền của quân Nguyên xâm lược vừa tới Vân Đồn, đã bị quân của Trần Quốc Tảng (cùng Trần Khánh Dư )chặn đánh, đốt cháy phần lớn lương thảo ( thuyền lương giặc cháy dạt vào bờ chồng chất. và nơi ấy có tên là bãi Cháy cho đến ngày nay), quân Nguyên bị thiệt hại đáng kể về lương thảo, hoang mang về tâm lý trước khi tiến vào cửa Bạch Đằng. Trần Quốc Tảng tử trận, được lập Đền thờ tại cửa Ông ( danh từ Ông chính là cách gọi tôn trọng Trần Quốc Tảng ). Trở lại đất Đào Động thời điểm trước trận Bạch Đằng, Tĩnh quan Thượng cạnh Đền Đức Vua, tương truyền là nơi Trần Hưng Đạo tạm trú, ngày ngày ngài lên Đền thờ Đức Vua để dâng hương, tĩnh toạ, nghiền ngẫm trận đồ ...
Xa xa 1 chút về phía chính bắc đền Đồng Bằng, là đống Thần Đồng Hưng nổi lên như 1 quả đồi trên thảm lúa, đống Thần thờ 1 trong 5 vị Thành hoàng đã giúp hai Bà Trưng đánh thắng quân Tô Định xưa, thời Trần ngày ấy, vùng đất bãi phẳng kề cạnh và đống Thần Đồng Hưng là nơi tập trận của quân sĩ, để sau sẵn sàng tiêu diệt quân Nguyên Mông, khi gặp tình huống chúng bị chặn đường rút ra biển bằng thuyền, phải tràn lên bờ sông Bạch Đằng, như ý đồ tác chiến của Hưng Đạo Vương ...Vùng bãi gần đống Thần này, vẫn có tên là Đồng Ông cho đến bây giờ .
Trước ngày tiến quân ra Bạch Đằng cự giặc, Trần Hưng Đạo làm lễ dâng hương tại Đền Đức Vua, Đền quan lớn đệ Tam, lập Đàn cầu Bách Thần đất Việt phù trợ rồi ban lệnh xuất quân ...
Khi hành quân qua sông Hoá, thuộc xã An Thái bây giờ, chọn lúc nước triều xuống để hàng chục vạn quân vượt sông, con voi chiến bị sa lầy, Hưng Đạo Vương đành bỏ con voi trung thành đã cùng ông qua trăm trận mạc, đang chìm dần trong nước triều cường, để kịp ra trận ... Tương truyền con voi nhìn theo chủ mà rống thảm thiết, mắt nó chảy ra máu ...Hưng Đạo Vương rút gươm chỉ xuống dòng nước mà thề rằng: " Nếu không thắng giặc, ta nguyện không trở về ...". Tượng con voi chiến sau đó được tạc bằng đá, hiện thờ tại cửa Đền A Sào .
Sau chiến thắng Bạch Đằng, Hưng Đạo Vương về tế tạ tại Đền Đức Vua, Năm Trùng Hưng thứ 4 ( 1288), vua Trần Nhân Tông tái phong mỹ tự cho Vĩnh Công, cho phép mở mang tu bổ đền phủ, tương truyền mở rộng đến cung đệ nhị bây giờ. Năm 1300, khi Hưng Đạo Vương từ trần, bài vị của ông được lập và thờ cạnh bài vị Vĩnh Công tại cung Cấm trong Đền Đồng Bằng .
Cũng sau chiến thắng quân Nguyên, Đào Hoa Công chúa Trần Thị Thái cho dựng chùa Đông ( gần đình Đông ), hướng ra Đầm Bà, để cầu siêu thoát cho vong linh các binh sĩ đã tử trận ở Bạch Đằng .
Dân làng Bưởi sau này dựng Miếu thờ Bà ngay sát mép nước Đầm Bà, tại Quảng Yên - Quảng Ninh, tương truyền trước trận Bạch Đằng, Bà Trần Thị thái đã ra thị sát thuỷ triều, cùng cha nuôi là Hưng đạo Vương lựa địa thế cắm cọc chặn đường rút của giặc ... Đền thờ Đào Hoa Công chúa được lập ngay bên bờ sông Bạch Đằng ( ngôi Đền còn tồn tại đến nay, ngay đầu lối ra phà Rừng từ phía Quảng Yên ) ...
Vào đời Lê, năm 1440 đời Lê Thái Tông, Danh hào Nguyễn Trãi cùng vợ là Thị Lộ từ Côn sơn về thăm cảnh và lễ tại Đền Đồng Bằng. Tiết xuân, năm Quang Thuận thứ 2 ( 1461) Vua Lê Thánh Tông kinh lý qua Đào Động, đến Đền dâng hương và có thơ vịnh cảnh Đền ( bài thơ rất tiếc đã thất lạc )...
Thời nhà Nguyễn, năm Đinh Sửu( 1817) Đại công thần Nguyễn Văn Thành là tổng trấn Bắc kỳ, một người có ân với dân, về tế tại đền. Năm 1924, vua Khải Định tái sắc phong cho Vĩnh công, cho phép mở mang Đền phủ, tương truyền đền được mở rộng đến cung đệ tam, cung đệ tứ, xây toà cổng tam quan tồn tại đến bây giờ ...
*TS Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Đào tạo Doanh nhân APEC
Ý kiến của bạn